BẢN ÁN CÓ CẢ TÌNH VÀ LÝ "TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG SAU LY HÔN"

05/01/2019 02:37

Vụ án dân sự “Tranh chấp tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn”

giữa

I. Nguyên đơn: Bà Trần Thị B

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm (Nguyên đơn không có luật sư trong giai đoạn sơ thẩm): Luật sư Vũ Như Hảo (Giám đốc Công ty Luật TNHH MTV Vũ Như Hảo và Cộng sự).

II. Bị đơn: Tôn Thất C

III. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Phi B (người thuê nhà);

2. Bà Võ Thị Thu H (người thuê nhà);

Tài sản tranh chấp: căn nhà 2SB XX, phường Lộc Thọ, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Tóm tắt vụ án:

     Trước đây, bà Trần Thị B và ông Tôn Thất C là vợ chồng. Đến ngày 13/08/2012 cả hai đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 447/2012/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang. Khi ly hôn bà B và ông C không yêu cầu chia tài sản. Ngày 05/11/2012, bà B khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn. Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận: Căn nhà căn nhà 2SB XX, phường TT, Nha Trang, Khánh Hòa do ông Tôn Thất C đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất được mua năm 2005. Nguồn tiền ông C mua nhà là do được thừa kế của mẹ ông C và được cha ông C cho.

Bản án sơ thẩm số: 67/2014/DS-ST

Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang

Ngày: 09/09/2014

V/v: “Tranh chấp tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn”

Nội dung bản án:

1. Bác đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị B về việc chia tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn.

2. Công nhận căn nhà có kết cấu nền gạch men, tường gạch. mái ngói, diện tích xây dựng 36,5 m trên diện tích đất 39,8 m thuộc thửa đất số Y, tờ bản đồ số Z, tọa lạc tại số căn nhà 2SB XX, phường TT, Nha Trang, Khánh Hòa là tài sản riêng của ông Tôn Thất C (có sơ đồ nhà đất kèm theo bản án).

3. Bà Trần Thị B phải trả cho ông Tôn Thất C bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: HYM do UBND thành phố Nha Trang cấp cho bà Lâm Thị L và ông Trần Huy K (chết) ngày 03/07/2006, chỉnh lý ông Tôn Thất C nhận chuyển nhượng ngày 31/10/2006.

3. Buộc các ông bà Nguyễn Phi B và Võ Thị Thu H trả lại nhà cho ông Tôn Thất C.

Ngày 02/10/2014, bà Trần Thị B là nguyên đơn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm số 67/2014/DS-ST ngày 09/09/2014 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang và yêu cầu cấp Phúc thẩm: "Sửa bản án sơ thẩm, chia tài sản tranh chấp cho bà B được hưởng 50% giá trị căn nhà và đất tại 2SB XX, phường TT, Nha Trang, Khánh Hòa".

Bản án phúc thẩm số: 28/2015/DS-PT

Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa

Ngày 13/04/2015

V/v: “Tranh chấp tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn”

Tóm tắt nội dung bản án: Chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị B, sửa bản án sơ thẩm:

1. Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị B về việc chia tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn.

2. Xác định tài sản căn nhà 2SB XX, phường TT, Nha Trang, Khánh Hòa là tài sản chung của ông C và bà B.

3. Giao cho ông C sở hữu căn nhà 2SB XX, phường TT, Nha Trang, Khánh Hòa.

4. Ông Tôn Thất C có nghĩa vụ thanh toán cho bà B số tiền 426.287.000đ. Bà B giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C.

5. Ông bà Nguyễn Phi B và Võ Thị Thu H có nghĩa vụ giao nhà, đất số 2SB XX, phường Lộc Thọ, tp Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa cho ông Tôn Thất C.

Luận cứ của Luật sư

       Mấu chốt của vụ án là muốn chia tài sản chung thì trước tiên phải chứng minh được tài sản trên là tài sản chung của vợ chồng! Đây là một điều rất khó vì nó là ý chí của con người là vật vô hình chứ không phải vật hữu hình có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, Luật sư đã thuyết phục được Hội đồng xét xử phúc thẩm rằng trong quá trình sống chung ông C đã tự nguyện đưa tài sản này vào khối tài sản chung thể hiện qua những hành vi, sự kiện sau:

+ Số vàng mà cha của ông C cho, ông C mang về nhà và đưa cho bà B cất giữ. Khi mua nhà bà B đã lấy vàng giao cho ông C trả tiền mua nhà;

+ Khi mua nhà ông C không yêu cầu bà B xác nhận đó là tài sản riêng của ông C;

+ Năm 2006 và năm 2007 ông C và bà B đã thế chấp căn nhà này để vay tiền kinh doanh; cả hai cùng vay và có nghĩa vụ trả, đồng thời cùng sử dụng chính tài sản này làm tài sản thế chấp điều này cho thấy ông C xác định bà B là đồng sở hữu. Việc ông C xác nhận bà B là đồng sở hữu chung tài sản được lưu trong hồ sơ thế chấp tại Ngân hàng. Hơn nữa, thu nhập từ việc sử dụng tiền tiền vay cũng để phục vụ cho sinh hoạt gia đình và tích lũy chung của cả hai vợ chồng. Đến nay, số tiền trả nợ ngân hàng đã xong và bà B là người giữ giấy tờ nhà do ngân hàng giao cho bà B.

Từ những việc làm trên của ông C đã thể hiện ý chí của ông C xác định đây là tài sản chung của vợ chồng. Ý chí này đã thể hiện suốt quá trình sống chung cho đến khi ly hôn. Điều này được ông C trình bày trong đơn ly hôn do chính ông C là nguyên đơn nộp tại Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang.

         Ngoài ra, Luật sư còn đề nghị Tòa án xem xét điều kiện sống của bà B và các con hiện nay. Cả ông C và bà B xác nhận: hiện tại bà B và các con đang thuê nhà của chị ông C và ông C không cấp dưỡng nuôi con. Do đó, việc chia tài sản chung là chính đáng để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên khi ly hôn.

         Sau khi nghe luật sư trình bày Hội đồng xét xử Phúc thẩm đã quyết định công nhận tài sản trên là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên xét về công đóng góp thì chia theo tỷ lệ 7/3 ông Cường sẽ được 70% giá trị căn nhà và bà B sẽ được 30% giá trị căn nhà.

         Đó là kết quả của một quá trình đấu tranh kiên trì bằng việc tìm kiếm các chứng cứ mới, tình tiết mới mà phiên tòa sơ thẩm chưa xem xét toàn diện. Bản án phúc thẩm hợp cả về tình và về lý, bảo vệ quyền lợi cho bên yếu thế hơn. 
Kết quả của vụ án đã giúp chị B giải quyết khó khăn vật chất vì tại thời điểm đó, kinh tế của chị vô cùng khó khăn, chị không đủ tiền để nuôi các con trong khi chồng cũ của chị - ông C lại không cấp dưỡng. Nếu không được chia một phần tài sản từ căn nhà thì không biết mẹ con chị B sẽ sống như thế nào? việc học hành của các con chị sẽ ra sao? Chị B kể chị đã đến nhiều nơi xin trợ giúp pháp lý nhưng người ta đều nói vụ của chị không có căn cứ, nếu kháng cáo thì khả năng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm bởi vì căn nhà trên được mua từ nguồn tiền ba mẹ của ông C cho và trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ có tên ông C. Tuy nhiên, chị B đã không bỏ cuộc và cuối cùng công lý đã mỉm cười với chị! 


Toàn văn bản án xem TẠI ĐÂY