Làm thế nào để đòi lại nhà đất cho ở nhờ?

Hỏi: Xin chào Luật sư Hảo & Cộng sự, tôi có tình huống cần được tư vấn như sau: Trước đây, mẹ tôi có mua 1 căn nhà tại Nha Trang và cho một người cháu phía nội ở nhờ và trông nom giúp. Hiện nay, vì mẹ tôi muốn bán căn nhà này nhưng khi thông báo cho người cháu này chuyển đi thì người cháu này nhất quyết không muốn đi.  Nhiều lần mẹ tôi đến cũng khóa trái cửa bên trong và không cho mẹ vào nhà. Luật sư cho tôi hỏi làm cách nào để đòi lại nhà cho ở nhờ theo đúng luật?

Đáp: Công ty Luật TNHH Vũ và Đồng nghiệp xin giải đáp như sau:

Theo như bạn trình bày thì mẹ bạn không có thỏa thuận hay hợp đồng với người mượn, ở nhờ nhà thì lấy lại bằng một trong các cách sau:

Cách 1. Thông báo về việc đòi nhà cho bên ở nhờ biết.

Theo quy định tại Điều 499 Bộ luật Dân sự 2015:

"Điều 499. Quyền của bên cho mượn tài sản

1. Đòi lại tài sản ngay sau khi bên mượn đạt được mục đích nếu không có thoả thuận về thời hạn mượn; nếu bên cho mượn có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng tài sản cho mượn thì được đòi lại tài sản đó mặc dù bên mượn chưa đạt được mục đích, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý.

2. Đòi lại tài sản khi bên mượn sử dụng không đúng mục đích, công dụng, không đúng cách thức đã thoả thuận hoặc cho người khác mượn lại mà không có sự đồng ý của bên cho mượn.

3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản do bên mượn gây ra.

Như vậy, để đòi lại nhà cho mượn, chủ nhà phải thông báo trước một khoảng thời gian hợp lý cho bên mượn biết về việc có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng nhà ở đó. Chủ nhà có thể tùy chọn cách thức thông báo như lời nói, văn bản, tin nhắn, email,... Thậm chí, chủ nhà được đòi lại nhà ngay tức khắc mà không cần bên mượn đồng ý nếu người đó sử dụng nhà không đúng mục đích như thỏa thuận ban đầu: cho người khác ở nhờ mà không được chủ nhà đồng ý, mượn nhà nhưng không phải để ở,... Nếu cách này không hiệu quả, người ở nhờ vẫn cương quyết từ chối trả lại nhà thì chủ nhà có thể khởi kiện tại Tòa án để đòi lại nhà.

Cách 2. Khời kiện tranh chấp đòi lại nhà cho ở nhờ, cho mượn ra Tòa án

Người có yêu cầu khởi kiện tranh chấp đòi lại nhà ở nhờ, cho mượn ở Tòa án phải trải qua các bước sau:

Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện

- Đơn khởi kiện.

- Tài liệu, giấy tờ chứng minh yêu cầu khởi kiện như: Giấy chứng nhận (Sổ đỏ, Sổ hồng), hợp đồng, văn bản cho mượn nhà (nếu có),...

- Bản sao giấy tờ tùy thân - Căn cước công dân/Chứng minh nhân dân.

Bước 2: Nộp hồ sơ khởi kiện

Nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc (điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015).

Các phương thức nộp quy định tại khoản 1 Điều 190 Luật Tố tụng Dân sự 2015:

"Điều 190. Gửi đơn khởi kiện đến Tòa án

1. Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:

a) Nộp trực tiếp tại Tòa án;

b) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có);

c) Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính.

Bước 3: Nộp tạm ứng án phí, nhận thông báo thụ lý

Bước 4: Tham gia vào quá trình tố tụng tại Tòa án

Bước 5: Mở phiên Tòa xét xử vụ án đòi lại nhà ở nhà, cho mượn

Bước 6: Thi hành án

 
Truy cứu trách nhiệm hình sự hay dân sự nếu bên vay tiền không trả nợ?

Hỏi: Tôi có tình huống cần được giải đáp như sau: Tôi có cho một người bạn vay số tiền là 200 triệu để chữa bệnh và cam kết thời hạn trả tiền là 2 tháng. Đến hạn trả tiền, tôi liên lạc thì bạn tôi cố tình không nghe máy, đến nhà tìm gặp thì có động thái lẫn tránh, trốn tránh và tôi được biết bạn tôi không dùng số tiền để chữa bệnh mà đem tiền cá cược đá bóng. Hiện nay tôi đang phân vân không biết nên khởi kiện ra tòa hay là nộp đơn tố cáo đến công an để giải quyết vấn đề của tôi? Mong Luật sư giải đáp.

Đáp: Công ty Luật TNHH Vũ Như Hảo và Cộng sự xin giải đáp như sau:

1. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

Theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:

"Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác."

Như vậy, trả nợ khi đến hạn là nghĩa vụ của bên vay. Nếu đến hạn trả nợ nhưng bên vay không trả, có hai trường hợp xảy ra như sau:

- Trường hợp 1: Bên vay không trả nợ do không có khả năng chi trả và không có dấu hiệu bỏ trốn hay thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì sẽ là tranh chấp dân sự. Để đòi lại được tiền, bên cho vay thực hiện thủ tục khởi kiện đến cơ quan Tòa án để đòi tài sản.

- Trường hợp 2: Bên vay có thể trả nợ nhưng không trả mà cố tình dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Để đòi lại được tiền, bên cho vay thực hiện thủ tục nộp đơn tố cáo đến cơ quan Công an.

2. Truy cứu trách nhiệm hình sự hay dân sự nếu bên vay tiền không trả nợ?

Theo thông tin bạn cung cấp, người bạn này vay 200 triệu đồng với lý do chữa bệnh nhưng lại dùng số tiền đó để cá độ đá bóng, hiện nay luôn trốn tránh, không có ý định trả nợ. Trong trường hợp này, người bạn này đã dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin không đúng sự thật là vay tiền để chữa bệnh và trốn tránh trách nhiệm trả nợ nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của bạn là 200 triệu đồng. Như vậy, người bạn này có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 như sau:

"Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản."

Bạn có thể làm đơn tố cáo gửi cơ quan Công an để được giải quyết. Trong trường hợp của bạn, bên cạnh trách nhiệm hình sự còn có trách nhiệm dân sự đối với việc người bạn này vay tiền và đã đến hạn trả nợ theo Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015. Đây là trách nhiệm song song và đồng thời.

Có được chuyển nhượng đất nông nghiệp sử dụng chung?

Hỏi: Tôi xin trình bày ngắn gọn như sau: Trước đây, tôi và 5 người bạn có mua một mảnh đất nông nghiệp. Chúng tôi đã được cấp sổ chung có tên 6 người với hình thức sử dụng là sử dụng chung. Hiện nay, tôi có nhu cầu bán phần của mình trong mảnh đất sử dụng chung đó. Vậy cho tôi hỏi đất nông nghiệp sổ chung có chuyển nhượng được hay không?

Đáp: Công ty Luật TNHH Vũ Như Hảo và Cộng sự xin giải đáp như sau:

1. Khái niệm về đất nông nghiệp được cấp sổ chung?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật Đất đai 2013  về nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất như sau:

“Điều 98. Nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

...

2. Thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người 01 Giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện.

Theo đó, đất nông nghiệp được cấp sổ chung hay gọi khác là đất nông nghiệp có nhiều người cùng chung quyền sử dụng đất và cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận. Cụ thể:

- Thửa đất nông nghiệp có nhiều người chung quyền sử dụng đất.

- Được cấp sổ chung (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất) ghi đầy đủ tên của những người đó trong Giấy chứng nhận và cấp cho mỗi người 01 Giấy chứng nhận.

- Trường hợp các chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện.

2. Có được chuyển nhượng đất nông nghiệp sử dụng chung?

Căn cứ tại khoản 2 Điều 64 Nghị định 43/2014/NĐ-CP có quy định về hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất như sau:

“Điều 64. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất

...

2. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư.

Và tại điểm b khoản 2 Điều 167 Luật Đất đai 2013 có quy định về quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau:

“Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất

...

2. Nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất thì có các quyền và nghĩa vụ như sau:

...

b) Trường hợp nhóm người sử dụng đất mà quyền sử dụng đất phân chia được theo phần cho từng thành viên trong nhóm, nếu từng thành viên của nhóm muốn thực hiện quyền đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì phải thực hiện thủ tục tách thửa theo quy định, làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của Luật này.

Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất không phân chia được theo phần thì ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất.

Như vậy, trường hợp của bạn khi chuyển nhượng đất nông nghiệp sử dụng chung phải được sự đồng ý của tất cả các đồng sở hữu còn lại:

- Hợp đồng chuyển nhượng phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên.

- Trường hợp không có đầy đủ các thành viên ký thì phải có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự.

NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC

Hỏi: Thưa luật sư cho tôi hỏi thắc mắc về thừa kế không dựa di chúc như sau: Tôi sinh sống không có kết hôn với chồng tôi và chúng tôi có hai đứa con (hiện đang dưới 18 tuổi). Trong giấy khai sinh của các cháu đều có tên bố cháu.  Tháng 4/2018, chồng tôi mất và ông có để lại di chúc cho toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2,5 tỉ đồng cho người vợ trước và ba người con của ông với vợ trước.

Hoàn cảnh của tôi cũng khó khăn và một mình nuôi hai con nhỏ nên tôi đã yêu cầu vợ trước của chồng tôi chia thừa kế cho con tôi nhưng bà không đồng ý. Vậy xin hỏi pháp luật có bảo vệ quyền được hưởng thừa kế của hai con tôi không? Tôi phải làm thế nào ạ? Mong giải đáp từ luật sư rất nhiều, xin cảm ơn.

Đáp: Công ty Luật TNHH Vũ Như Hảo và Cộng sự xin giải đáp như sau: 

1. Quy định về di chúc

Theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 thì: 

"Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết".

Đồng thời, theo quy định về người lập di chúc quy định tại Điều 625 Bộ luật Dân sự thì:

Điều 625. Người lập di chúc

1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”

Như vậy, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản cho người khác trước khi chết. Nếu đủ điều kiện để lập di chúc theo quy định nêu trên thì người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế và phân định tài sản của mình mà không cần sự đồng ý của bất kỳ ai.

Vì vậy, chồng của bạn có quyền lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho người vợ trước và các con của người vợ trước.

2. Về quyền lợi của người hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:

“644. Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

Theo như quy định trên thì con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động sẽ được hưởng phần di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Trường hợp của con bạn, pháp luật Việt Nam không có sự tách biệt về quyền thừa kế của con ngoài giá thú với con trong giá thú. Giấy khai sinh của các con bạn có ghi tên người cha chính là căn cứ để chứng minh quan hệ cha con ở đây. Vì 2 người con của bạn vẫn chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), do đó, mặc dù không được người cha để lại thừa kế theo di chúc nhưng 2 cháu vẫn sẽ được chia một phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.

Trường hợp của bạn, về quyền thừa kế, pháp luật hôn nhân hiện hành chỉ công nhận quan hệ hôn nhân giữa nam nữ chung sống với nhau như vợ trước ngày 3/01/1987. Do đó, nếu như bạn chung sống với chồng trước thời điểm trên thì bạn cũng là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu chung sống sau thời điểm trên mà không có đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân chưa được pháp luật công nhận nên bạn không có quyền thừa kế theo quy định trên.

Trường hợp bạn không thể tự đòi được quyền lợi cho 2 người con của bạn, bạn có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân quận/huyện để yêu cầu chia thừa kế.

Căn cứ pháp lý: khoản 5 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35 Luật tố tụng dân sự 2015

 
>