CĂN CỨ THU TIỀN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN
21/11/2024 11:22
Hỏi: Căn cứ vào quy định của Luật Thi hành án dân sự, để chấp hành viên để thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án.
Công ty Luật TNHH MTV Vũ & Đồng nghiệp xin giải đáp như sau:
Căn cứ để thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án
Điều 79 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án như sau:
"1. Trường hợp người phải thi hành án có thu nhập từ hoạt động kinh doanh thì Chấp hành viên ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người đó để thi hành án. Khi thu tiền, Chấp hành viên phải để lại số tiền tối thiểu cho hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của người phải thi hành án và gia đình.
2. Chấp hành viên cấp biên lai thu tiền cho người phải thi hành án."
Như vậy, người phải thi hành án đang có thu nhập từ hoạt động kinh doanh, việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người đó là một biện pháp thi hành án cần thiết. Điều này nhằm đảm bảo rằng người phải thi hành án sẽ phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự đã được áp đặt và không trốn tránh trách nhiệm này. Tuy nhiên,Chấp hành viên phải giữ lại một số tiền tối thiểu cho hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của người phải thi hành án cùng gia đình.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 22 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP, việc xác định mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án được Chấp hành viên tiến hành dựa trên các yếu tố như kết quả kinh doanh ghi trên sổ sách, giấy tờ và tình hình kinh doanh thực tế của người phải thi hành án.
Mức tiền tối thiểu để lại cho người phải thi hành án sau khi thu tiền từ hoạt động kinh doanh phải đảm bảo tiêu chí gì?
Điều 22 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định như sau:
2. Mức tiền tối thiểu để lại cho người phải thi hành án phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng. Việc xác định mức sinh hoạt tối thiểu của người phải thi hành án và người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng được căn cứ vào chuẩn hộ nghèo của từng địa phương nơi người đó cư trú, nếu địa phương chưa có quy định thì theo chuẩn hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo từng giai đoạn cụ thể.
Mức tiền tối thiểu để lại cho hoạt động sản xuất kinh doanh do Chấp hành viên ấn định căn cứ vào tính chất ngành, nghề kinh doanh; quy mô kinh doanh của người phải thi hành án và mức ấn định này có thể được điều chỉnh.
Theo quy định trên, mức tiền tối thiểu để lại cho người phải thi hành án sau khi thu tiền từ hoạt động kinh doanh phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho người đó và những người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, quy định cụ thể về mức tiền này được xác định dựa trên chuẩn hộ nghèo của từng địa phương nơi người đó cư trú. Trong trường hợp địa phương chưa có quy định cụ thể, thì mức tiền tối thiểu để lại sẽ được áp dụng theo chuẩn hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ ban hành, và việc này sẽ được điều chỉnh theo từng giai đoạn cụ thể.
Trường hợp nào người phải thi hành án dân sự được hoãn thi hành án?
Khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bởi khoản 21 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014 quy định các trường hợp được hoãn thi hành án dân sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
"1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án;
b) Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định;
c) Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác;
d) Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm;
đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này;
e) Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận;
g) Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan;
h) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này."
Luật sư Khánh Hoà.